dimanche 2 mars 2014

Cách xưng hô trong Phật Giáo

Một bài do anh Oanh sưu tầm và gởi đăng... xin mời vào đọc...


Xin cám ơn anh Oanh gởi cho bài này thật hửu ích...


Cách xưng hô trong Phật Giáo

Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal,
Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:

1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay
Hòa Thượng?

2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là
Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?

3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là
Sư ông, hay cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với
bậc bề trên trong gia đình chăng?

4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều
tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là
“con” với vị xuất gia?

5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia
đình?


Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:

*1) Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”. Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc
đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để
ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời. Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận
chúng sanh”. Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên
luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để
đem an lạc cho chúng sanh,tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người
đang tu trong đạo.

*2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:
Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức,
trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh. Hai là, cách xưng
hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia,mà thôi. Người chưa rõ cách xưng hô
trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho
nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.

*3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.  Tuổi đời là tuổi tính
theođời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất
gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm
phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi
hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp). Trong nhà đạo, tất cả mọi
việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời.  Ở đây không bàn đến việc
những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.
Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do
gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị
đồng chơnnhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập
kinh kệ, nghi lễ. Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni
(nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi
các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là
“khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).
Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu
tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay
348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô(nữ). Trên giấy tờ thì ghi
là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia.
Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời
xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm,
được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bênni, bên tăng không có. Tuy nhiên
trong tạng luật, có đến 100 chúng học giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần nói
thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọilà tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ
kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới. Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy
đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời
(thường gọi là viên tịch, không nên lạm dụng từvãng sanh), không phải thụ giới nào
cao hơn. Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị
theo bắc tông, nam tông không có giới này.
Ở đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền, phát triển) là danh từ chỉ các tông
phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung
Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là
danh từ chỉ các tôngphái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua
các xứ Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.
Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh
hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo hiến
chương của Giáo Hội Phật Giáo như sau:

1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.
2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là ThượngTọa.
3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ):
4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở
Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).
5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.
6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sưbà (bây giờ gọi là Ni
trưởng).

Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong
việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo Hội Phật Giáo, không được
lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi
một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại
Lễ hay Đại Hội Phật Giáo, trong các Giới Đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ. Ni sư nghĩa là
Thượng tọa bên ni bộ. Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ. Bởi vậy
cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn
Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực
tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni,
hay Hòa thượng ni. Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến,
nghe không quen tai nhưng không phải là sai. Đối với các bậc Hòa Thượng mang
trọng trách điều hành các cơ sở Giáo Hội Phật Giáo trung ương cũng như địa phương,
hay các Đại Tùng Lâm, Phật Học Viện, Tu Viện, thường làcác vị trên 80 tuổi đời, được
tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa hượng. Các vị thuộc hàng giáo
phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng
minh tối cao của các Giáo Hội Phật Giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư
chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy
tu).
Đến đây, chúng ta nói về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư
sĩ Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.

1)* Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị
kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách). Bên tăng cũng nhưbên ni,
đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư).Các vị xuất gia cùng tông môn,
cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ,Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang
vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh,
Sư chị, Sư em. Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu,
chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu
(bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức
tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.

2)* Khi tiếp xúc với chư tăngni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia (kể cả thân quyến của chư
tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không
muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong
tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ
không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính
Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn,
mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy.  Có những vị cao tuổi xưng tôi
hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam Bảo
thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo)
truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung
một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ,
nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có
Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni,
xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho
việc tu tâm dưỡng tánh.

3)* Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư
tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần
tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu,
hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm
theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí
vị tại gia là “Quí Phật Tử”. Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia
hay tại gia đều cùng là Phật Tử, chứ không riêng tại gia là Phật Tử mà thôi. Việc một
Phật Tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật Tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là
không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên
bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời:ngôi thứ,
cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứtheo thời gian tăng
lên. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã
hội, dù tại gia hay xuất gia.

4)* Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính
thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật Tử tại
gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng,tùy theo tuổi tác, quan hệ,
như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ
Cư sĩ thường dùng cho quí Phật Tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập
và góp phần hoằng pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện nam, Cận sự nam) hay Ưu
bà di (Tín nữ, Cận sự nữ).

5)* Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng “con” trong đạo Phật
qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và
đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn
thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt đượ cmục đích tối thượng. Ngài thực sự
thừa hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã
chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng
như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ
được xưng “con” trong giáo pháp của đức Phật.

6)*  Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải
trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không
khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú
tiểu, giống như gọi các vị trẻtuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay
Sư bác. Hai từ ngữnày có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn
phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội,
hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả
năng hoằng pháp, từng đảm nhận trọng trách, hay nghiên cứu tu tập trước khi vào
đạo.

7)* Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư Ông, Sư Cụ thường dành gọi vị sư phụ của sư
phụ mình,hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và
xuấtgia. Một danh xưng nữa là Pháp Sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có
khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng
này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.

8)* Danh xưng Sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế,
và danhxưng Tổ Sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong
vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ
ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài,
tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính.

9)* Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc
thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa
thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn
ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức.

10)* Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi
theo Bồ tát Thường bất khinh, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất
gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân
lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả
lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Cho nên đơn giản nhất là:
“xưng con gọi Thầy”.
Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.






* * *
Tóm lại, ngôn ngữ,danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau,
trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên
cách xưng hôtrong đạo Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời
đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần
tu tướng.
Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ
danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời
nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh
tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.
Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay
không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi. Nơi đây không bàn đến cách xưng
hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền
môn, dù tại gia cũng như xuất gia. Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn
khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.
Cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc,
thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế
thôi! Đó là phần tu tâm.
Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến,
không biến đổi, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng tu tâm dưỡng
tánh không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối
với Phật Tử tại gia cũng như xuất gia.
Đó chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy.

Aucun commentaire:

Enregistrer un commentaire